Có một số xu hướng mới về việc phát triển truyền hình tại Việt Nam, khu vực châu Á - Thái Bình Dương cũng như trên thế giới, mà khởi đầu là Truyền hình OTT (Over-The-Top)
Nhiều nhà cung cấp dịch vụ cũng như người tiêu dùng châu Á hiện đang chuyển sang sử dụng OTT.
Đối với người sử dụng Internet thường xuyên, một ứng dụng hoặc dịch vụ OTT là một cái gì đó đại loại như:
- YouTube, Vimeo, Netflix hoặc Apple TV cho việc truyền dẫn nội dung truyền hình
- Skype hay FaceTime cho các cuộc gọi thoại/video
- WhatsApp hay iMessage cho nhắn tin trên thiết bị di động
- Xbox 360 hay World of Warcraft để chơi game
Vậy, ứng dụng hay dịch vụ OTT (Over-The-Top) là gì?
Về cơ bản, các dịch vụ hoặc ứng dụng OTT là những dịch vụ trên Internet mà không phải do các nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) trực tiếp đưa đến. Tất nhiên, đối với nhà cung cấp dịch vụ viễn thông/ ISP, điểm đáng lưu tâm nhất của một ứng dụng hoặc dịch vụ OTT là người dùng không phải trả tiền cho họ.
Những năm 2008 và 2009, thuật ngữ "ứng dụng/dịch vụ OTT" chủ yếu được áp dụng cho các dịch vụ video như Netflix hay Hulu. Vào thời điểm đó, một số nhà cung cấp dịch vụ lớn của Mỹ như Comcast và AT & T đã tung ra dịch vụ video theo yêu cầu và gặp phải sự thách thức từ Netflix và Hulu. Các công ty này đã đưa đến những dịch vụ OTT thông qua kết nối Internet mà không cần bất kỳ sự tương tác nào với các nhà cung cấp dịch vụ Internet (cũng như không tạo ra bất kỳ khoản chi phí nào cho người dùng).
Sau đó, OTT được áp dụng cho một loạt các ứng dụng nhắn tin, thay thế cho các dịch vụ nhắn tin SMS tốn phí truyền thống do các công ty viễn thông cung cấp. WhatsApp, Apple iMessage, BlackBerry Messenger (BBM), TU Me ... và hàng trăm hàng trăm ứng dụng khác thi nhau xuất hiện. Một vài người thậm chí còn xếp Twitter và Facebook vào dạng ứng dụng này. Hệ quả tất yếu của "sự xâm lăng" này là doanh thu của các công ty viễn thông bị suy giảm nghiêm trọng. Công ty phân tích và nghiên cứu thị trường Ovum đã ước tính sự suy giảm này lên đến 13,9 tỷ USD chỉ tính riêng trong năm 2011.
OTT cũng được áp dụng cho các ứng dụng VoIP như Skype, FaceTime của Apple, Viber, Voxer, Tango… Gần đây, ý nghĩa của thuật ngữ OTT đã được mở rộng hơn, áp dụng cho bất kỳ nhà cung cấp nội dung nào bao gồm cả những nhà cung cấp nội dung truyền hình. Điểm mấu chốt của tất cả điều này là các ứng dụng/dịch vụ OTT không đến từ các công ty viễn thông truyền thống hoặc các nhà cung cấp dịch vụ Internet. Các công ty viễn thông và ISP chỉ đơn thuần là các nhà cung cấp kết nối IP mà các ứng dụng OTT hoạt động trên đó.
Năm 2013 là một năm chứng kiến sự tương tác tích cực giữa các nhà cung cấp nội dung truyền hình với thị trường OTT mà trước đây họ chỉ chung cấp nội dung cho các nhà cung cấp dịch vụ truyền phát. Từ sự thành công của các nhà cung cấp dịch vụ truyền hình tại thị trường Mỹ như HBO và MLB, năm 2014 và 2015 cũng đã là 2 năm chứng kiến một loạt những nhà cung cấp nội dung truyền hình bước từ thị trường truyền phát sang việc cung cấp thẳng nội dung cho người tiêu dùng. Điều này không chỉ cho phép họ bán được những gói nội dung một cách tốt hơn mà còn nghiên cứu được rào cản về mặt địa lý của việc ký kết bản quyền các chương trình truyền hình.
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương hiện vẫn là một thị trường phát triển mạnh của những thiết bị di động, các ứng dụng và dịch vụ mạng vì vậy xu hướng tất yếu của các nhà cung cấp dịch vụ truyền phát và cả người tiêu dùng là sẽ chuyển sang sử dụng OTT.